Điều hành của chính phủ và lạm phát Việt Nam năm 2019

|

Điều hành của chính phủ và lạm phát Việt Nam năm 2019

Kết quả kiềm chế lạm phát năm 2019

CPI bình quân năm 2019 tăng 2,79% so với năm 2018 và tăng 5,23% so với tháng 12 năm 2018. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2019 tăng 2,01% so với bình quân năm 2018.

Mặt bằng giá thị trường trong năm 2019 biến động theo hướng tăng cao trong tháng diễn ra Tết Nguyê;n đá;n, giảm nhẹ trong tháng 3, tăng dần trở lại trong hai tháng tiếp theo, sau đó giảm trở lại vào tháng 6 và tiếp tục tăng vào các tháng cuối năm. Cùng với diễn biến tăng/giảm giá cả thị trường, CPI các tháng cũng tăng/ giảm theo xu hướng của thị trường. CPI tăng cao nhất vào tháng 2 tăng 0,8%, tháng 11 tăng 0,96%, tháng 12 tăng 1,4%.
 
Hình 1. Chỉ số giá tiê;u dùng năm 2019
 
 
Năm 2019, tiếp tục với mục tiê;u đã đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 1/1/2019 của Chính phủ, hàng quý hoặc đột xuất, Ban Chỉ đạo điều hành giá do Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ làm Trưởng ban đều họp đánh giá kết quả cô;ng tác điều hành giá, kiểm soát lạm phát và đưa ra các kịch bản lạm phát các tháng còn lại để chủ động điều hành giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý vào các thời điểm phù hợp nhằm hạn chế lạm phát kỳ vọng. Cụ thể: Các Bộ, ngành đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan đầu mối là Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê;), Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong cô;ng tác tính toán dự báo, xây dựng kịch bản chi tiết, cụ thể cho từng thời điểm, từng giai đoạn đối với từng mặt hàng thiết yếu nhằm đảm bảo kiểm soát lạm phát theo mục tiê;u đề ra. Bộ Kế hoạch và Đầu tư tính toán, cân đối chính sách kinh tế vĩ mô;, gắn điều hành tăng trưởng với kiểm soát lạm phát để kịp thời đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các giải pháp thực hiện hiệu quả. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương trong việc triển khai đồng bộ các biện pháp điều hành giá theo các kịch bản đã được phê; duyệt; Đẩy mạnh cô;ng tác kiểm tra thực hiện pháp luật về giá, kiểm soát chặt chẽ việc kê; khai giá.
 
Bảng 1. So sánh CPI trong 5 năm gần đây

 
Một số nguyê;n nhân làm tăng CPI trong năm 2019
1. Điều hành của Chính phủ

Giá điện sinh hoạt điều chỉnh tăng từ ngày 20/3/2019 theo Quyết định số 648/QĐ-BCT ngày 20/3/2019 của Bộ Cô;ng Thương, cùng với nhu cầu tiê;u dùng điện tăng vào dịp Tết và thời tiết nắng nóng trong quý II/2019, quý III/2019 làm cho giá điện sinh hoạt năm 2019 tăng 8,38% so với năm 2018.

Giá dịch vụ y tế điều chỉnh tăng theo Thô;ng tư số 13/2019/TT-BYT ngày 5/7/2019 của Bộ Y tế, về việc quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trê;n toàn quốc và Thô;ng tư số 14/2019/TT-BYT ngày 5/7/2019 quy định mức tối đa khung giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh khô;ng thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ bảo hiểm y tế ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, chỉ số giá nhóm dịch vụ y tế tăng 4,65% so với năm 2018, làm CPI chung tăng 0,18%.

Thực hiện lộ trình tăng học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 2/10/2015 của Chính phủ, 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tăng học phí các cấp học. Theo đó, chỉ số giá nhóm dịch vụ giáo dục tăng 6,11% so với năm trước, làm CPI chung tăng 0,32%.

Từ tháng 4/2019, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam tăng giá sách giáo khoa năm học 2019-2020, làm cho chỉ số giá nhóm văn phòng phẩm tăng 3,32% so với cùng kỳ năm trước.


2. Yếu tố thị trường, cung cầu
 
Nhu cầu tiê;u dùng dịp Tết Nguyê;n đán Kỷ Hợi tăng cao vào hai tháng đầu năm và các tháng cuối năm 2019, làm tăng giá một số mặt hàng tiê;u dùng thuộc nhóm thực phẩm, dịch vụ ăn uống, đồ uống, dịch vụ giao thô;ng cô;ng cộng, dịch vụ du lịch… Bình quân năm 2019 so với năm trước: Giá thực phẩm tăng 5,08%, giá các mặt hàng đồ uống, thuốc lá tăng khoảng 1,99%; quần áo may sẵn các loại tăng 1,70%; giá dịch vụ giao thô;ng cô;ng cộng tăng 3,02%; giá du lịch trọn gói tăng 3,04%, trong đó mặt hàng thịt lợn bình quân năm 2019 tăng 11,79% là một trong những nguyê;n nhân chính làm CPI các tháng cuối năm tăng cao.

3. Diễn biến giá thịt lợn năm 2019
 
Do ảnh hưởng của dịch tả lợn Châu Phi tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tính đến ngày 19/12/2019, tổng số lợn tiê;u hủy gần 6,0 triệu con với tổng trọng lượng 340,8 nghìn tấn. Với số lượng bị tiê;u hủy này, sản lượng thịt lợn cả năm 2019 ước đạt khoảng 3,3 triệu tấn, giảm 13,8% so với năm 2018. Hiện nay, tổng đầu lợn theo báo cáo của các tỉnh hiện còn là 21.106,8 nghìn con, giảm 25,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó đàn nái là 2,7 triệu con; đàn lợn giống cụ kỵ, ô;ng bà còn 109 nghìn con.
 
Thịt lợn là mặt hàng thiết yếu và chiếm tỷ trọng lớn (khoảng 70%) trong cơ cấu tiê;u dùng thực phẩm của người dân. Vậy nê;n khi số lượng tăng đàn giảm ảnh hưởng đến nguồn cung thịt lợn trong dân, dẫn đến việc “thổi giá” trê;n thị trường. Thời gian đầu khi xuất hiện dịch tả lợn Châu Phi, người tiê;u dùng chưa có đầy đủ thô;ng tin nê;n nhu cầu tiê;u thụ giảm (do đó giá thịt lợn giảm từ tháng 4/2019 đến tháng 6/2019). Tuy nhiê;n đến nay, nhu cầu tiê;u dùng mặt hàng này đã trở lại bình thường và theo quy luật hằng năm giá mặt hàng thịt lợn có xu hướng tăng trong dịp cuối năm và Tết Nguyê;n đán. Hiện nay, giá thịt lợn hơi tùy từng địa phương tại miền Bắc giao động từ 90-95 nghìn đồng/kg; giá tại miền Trung và Tây Nguyê;n từ 80-90 nghìn đồng/kg; giá tại miền Nam giao động từ 80-95 nghìn đồng/kg. Trong những tháng cuối năm, tình hình dịch bệnh đã giảm, giá thịt lợn tăng cao khiến người chăn nuô;i đẩy mạnh tăng đàn, ước tính tổng đàn lợn tháng 12/2019 tăng 0,5% so với tháng 11/2019. Tổng cục Thống kê; ước sản lượng thịt lợn cung ứng cho thị trường thiếu hụt khoảng hơn 200 nghìn tấn.

Ngoài ra, giá các mặt hàng thiết yếu trê;n thế giới có xu hướng tăng, như: Giá nhiê;n liệu, chất đốt, sắt thép,… nê;n năm 2019 ước tính chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa so cùng kỳ tăng 0,59%, chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa tăng 3,01%; chỉ số giá sản xuất cô;ng nghiệp tăng 1,25%; chỉ số giá sản xuất nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,31%.

Các yếu tố kiềm chế CPI trong năm 2019

Bê;n cạnh các nguyê;n nhân làm tăng CPI, có một số nguyê;n nhân kiềm chế CPI năm 2019 cụ thể như: Giá nhiê;n liệu trê;n thị trường thế giới năm 2019 tăng giảm đan xen, bình quân giá dầu Brent từ thời điểm 1/1/2019 đến thời điểm 20/12/2019 ở mức 64,05USD/thùng, giảm 10,28% so với bình quân năm 2018. Tính đến ngày 20/12/2019, giá xăng dầu trong nước được điều chỉnh tăng 9 đợt, giảm 11 đợt và 4 đợt giữ ổn định, tính chung năm 2019 chỉ số giá xăng dầu giảm 3,14% so với năm 2018, làm CPI chung giảm 0,15%.

Bê;n cạnh đó, giá gas sinh hoạt trong nước được điều chỉnh theo giá gas thế giới, năm 2019 giảm 5,97% so với cùng kỳ năm trước. Giá đường trong nước cũng giảm mạnh theo giá đường thế giới, năm 2019 giảm 3,17% so với cùng kỳ năm 2018.

Đặc biệt, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã phối hợp chặt chẽ, thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm bảo đảm cân đối cung cầu, chuẩn bị tốt nguồn hàng, tăng cường cô;ng tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, tổ chức các đoàn cô;ng tác liê;n ngành kiểm tra tình hình triển khai thực hiện cô;ng tác quản lý bình ổn giá tại một số địa phương, điều hành tỷ giá theo cơ chế tỷ giá trung tâm linh hoạt.

Kết quả chỉ số CPI bình quân năm 2019 tăng 2,79% so với năm 2018 và tăng 5,23% so với tháng 12 năm 2018. Như vậy, mục tiê;u kiểm soát lạm phát, giữ CPI bình quân năm 2019 dưới 4% đã đạt được trong bối cảnh điều chỉnh được gần hết giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý đặt ra trong năm 2019./.

 
ThS. Đỗ Thị Ngọc
Vụ trưởng Vụ Thống kê; Giá - TCTK
 
 

Ứng dụng giải trí Baccarat